Chế độ ruộng đất Nông_nghiệp_Đại_Việt_thời_Trần

Ruộng công

Có hai bộ phận ruộng công, gồm ruộng đất do triều đình trực tiếp quản lý và ruộng đất công của thôn làng.

Ruộng quốc khố

Ruộng quốc khố, hay quốc khố điền, là ruộng công của triều đình mà hoa lợi thu được dự trữ vào kho của vua để chi dùng cho hoàng cung. Tương tự như thời , người cày cấy trên ruộng của vua gọi là "cảo điền nhi" hay "cảo điền hoành", vốn là người bị tù tội, có địa vị xã hội rất thấp.

Nhà Trần đặt ruộng quốc khố ở Cảo Xã[1]. Ruộng đất này không chiếm số lớn nhưng cũng là nguồn thu nhập đáng kể cho triều đình. Tại đây mỗi hoành nhi cày 3 mẫu, mỗi năm nộp 300 thăng thóc.

Sơn lăng

Sơn lăng là loại ruộng dùng vào việc thờ phụng tổ tiên dòng họ nhà vua, được giao cho dân trông nom việc tế tự, được miễn tô thuế. Thời Lý, ruộng sơn lăng tập trung ở hương Cổ Pháp (Bắc Ninh), tới thời Trần vẫn duy trì. Các vua Trần được chôn cất ở nhiều nơi nên ruộng sơn lăng cũng rải rác. Các làng Thái Đường, Thâm Động (Thái Bình), Tức Mặc (Nam Định), Yên Sinh (Quảng Ninh), đều có ruộng sơn lăng.

Không chỉ các vua Trần, các quý tộc nhà Trần cũng có ruộng sơn lăng. Những ruộng sơn lăng theo thời gian dù có thu hẹp nhưng vẫn tồn tại đến nhiều đời sau, gọi là tự điền; như ruộng sơn lăng Trần Thủ Độ ở xã Phù Ngự (làng Ngự, Hưng Hà, Thái Bình) duy trì tới năm Chính Hòa nhà Hậu Lê (1680-1705) thu nhỏ lại vẫn còn 9 mẫu[2], ruộng sơn lăng Hoài Đức vương Trần Bà Liệt tới đầu thế kỷ 20 dân địa phương gọi là "Trần triều sơn lăng" và được duy trì đến trước năm 1945 còn khoảng 41 mẫu ghi trong địa bạ làng Trang Liệt (Bắc Ninh)[3].

Tịch điền

Ruộng tịch điền là loại ruộng do triều đình trực tiếp quản lý, hoa lợi dùng cho triều đình, đã có từ thời Tiền Lê. Sử sách không ghi rõ các vua Trần đặt ruộng tịch điền tại đâu và những người cày ruộng là nô tì, nông nô hay nông dân làng xã.

Ruộng công làng

Hương là đơn vị hành chính cấp cơ sở của chính quyền. Do nhu cầu tô thuế và điều động nhân lực phục dịch và tuyển lính nên triều đình thường kiểm kê dân số.

Ruộng công làng gọi là quan điền hay quan điền bản xã. Sử sách không chép nhiều về chế độ ruộng công làng xã. Các nhà nghiên cứu căn cứ vào một số tư liệu lịch sử đưa ra một vài kết luận[4]:

  • Một thời gian dài trong thế kỷ 13 không lập điền bạ. Hương xã có nhiều ruộng công, song việc chi phối quản lý của triều đình chưa chặt chẽ.
  • Ruộng đất công tại các làng xã khác nhau và các dân đinh được phân chia số ruộng không đều nhau, có người không có ruộng cày cấy.
  • Nhà Trần có chế độ tô thuế cho loại ruộng công của làng xã: có 1-2 mẫu thì nộp 1 quan; có 3-4 mẫu thì nộp 2 quan, từ 5 mẫu trở lên nộp 3 quan; tô ruộng mỗi mẫu nộp 100 thăng thóc.

Mức tô thuế khá nặng, hàng năm người dân phải nộp số tiền bằng 1/10 đến 1/5 mẫu ruộng (đối với loại chỉ có 1 mẫu) hoặc từ 1/20 đến 1/10 mẫu ruộng đối với loại 2 mẫu.

Ruộng tư

Thái ấp

Quan lại thời chưa được cấp bổng, thời Trần mới định ra lệ cấp bổng cho các quan văn võ. Đây là nét khác biệt cơ bản giữa hai triều đại.

Chính sách ban cấp ruộng đất và bổng lộc thể hiện dưới hình thức thái ấp. Những thái ấp tiêu biểu thời Trần là Quắc Hương (Bình Lục, Hà Nam) của Trần Thủ Độ, Vạn Kiếp của Trần Quốc Tuấn, Chí Linh của Trần Quốc Chân, Diễn Châu của Trần Quốc Khang.

Điền trang

Điền trang đã hình thành từ khá lâu nhưng vẫn rời rạc và lẻ tẻ. Năm 1266, do nhu cầu khẩn trương mở rộng diện tích canh tác và thực hiện chủ trương xây dựng củng cố thế lực của quý tộc nhà Trần, triều đình cho các vương hầu, công chúa, phò mã cung tần chiêu tập những người xiêu tán không có tài sản làm nô tì để khẩn hoang. Điền trang chính thức phát triển phổ biến từ đó.

Các sử gia căn cứ vào tư liệu cũ xác định những vùng điền trang thời Trần như An Lạc (Bình Lục, Hà Nam), Vũ Lâm (Ninh Bình), Cổ Nhuế (Hà Nội), Tô Xuyên (Quỳnh Phụ, Thái Bình), Phất Lộc (Thái Thụy, Thái Bình).

Điền trang thành lập là điểm dân cư tiêu biểu cho hình thái kinh tế - xã hội thời Trần. Đây là khu vực kinh tế hỗn hợp của hình thức bóc lột nông nô, nô tì và nông dân lệ thuộc.

Ruộng tư của địa chủ

Năm 1254 đánh dấu mốc quan trọng trong sự phát triển ruộng tư hữu, triều đình ra lệnh bán ruộng công. Tới những năm 1280, hình thức sở hữu ruộng tư đã rất phổ biến. Những địa chủ sở hữu nhiều ruộng đất nhưng không vì vậy mà địa vị xã hội của họ được nâng cao[5].

Trong cuộc chiến tranh chống Nguyên-Mông, triều đình đã kêu gọi các địa chủ ủng hộ thóc lúa để nuôi quân và ban cho các địa chủ hiến lúa chức "giả lang tướng"[6].

Ruộng đất tiểu nông

Kinh tế hàng hóa - tiền tệ là một trong những nguyên nhân tạo ra sở hữu ruộng đất tiểu nông. Lệnh bán đất năm 1254 tạo điều kiện cho các gia đình tiểu nông mua thêm ruộng đất.

Sử cũ chép không nhiều về hình thức sở hữu này. Việc sở hữu ruộng đất của nông dân không ổn định. Vào những năm mất mùa, họ phải bán ruộng cho địa chủ, không ít người lâm vào cảnh làm nô tì[7].